Bình Ngô Ðại Cáo

Nguyễn Trãi

(bản dịch của cụ Ưu Thiên Bùi Kỷ)


Lời nói đầu: Bài bố cáo với quốc dân về việc vua Lê Thái Tổ Lê Lợi đã bình định xong giặc nhà Minh bên Tàu, viết bằng chữ Hán, do đại thần Nguyễn Trãi làm ra. Trong bài này Nguyễn Trãi đã dùng tài văn chương ca tụng công nghiệp khai sáng của vua Lê. Lời lẽ trong bài Bình Ngô Ðại Cáo rất hùng hồn, sắc bén, nêu cao hùng khí của người xưa và tinh thần bất khuất của dân ộc ta. Ðọc bài này, hậu thế lấy làm hãnh diện trước cảnh vinh quang của đất nước và lấy làm hứng khởi.

Tượng mảng :

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt chỉ vi`khử bạo .
Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập,
Cùng Hán,Ðường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương.
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên :

Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.
Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Ðô,
Sông Bạch Ðằng bắt sống Ô Mã.
Xét xem cổ tích đã có minh trưng.

Vừa rồi :

Vì họ Hồ chính sự phiền hà để trong nước nhân dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ .

Chước dối đủ muôn nghìn khóe,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn,
Nặng khoa liễm vét không sơn trạch :
Nào lên rừng đào mỏ,
Nào xuống bể mò châu,
Nào hố bẫy hươu đen,
Nào lưới lò chim sả.

Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay ? quan quã điên liên.
Kẽ há miệng đứa nhe răng máu mỡ bẩy no nê chưa chán.
Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề sanh cửi.
Ðộc ác thay ! Trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay ! Nước bể không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất tra cho
Ai bảo thân nhân nhịn được.

Ta đây :

Núi Lam Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nương mình.
Ngắm non sông căm nỗi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
Ðau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tính;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phê đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đổ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính là lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì :

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đầu,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả.
Thế mà trông người , người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chứng nịch.
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo quốc bộ khó khăn.
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi Huyện quân không một đội.
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng bắt trải qua bách chiếc thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ.
Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào khắp tướng sĩ, một lòng phụ tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay :

Ðem đại nghĩa để thắng để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
Trận Bồ Ðằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà Lân trúc phá tro baỵ
Sĩ khí đã hăng ,
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan,
Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh.

Ðánh Tây Kinh phá tan thế giặc,
Lấy Ðông Ðô thu lại cõi xưạ
Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông,
Bến Tuy Ðộng xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương phải phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo lường,
Mã Anh khôn đường cứu đỡ.

Nó đã trí cùng lực kiệt bó tay không biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.
Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương gây mầm tội nghiệp.

Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc.
Ðến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên đức, nhàm võ không thôi ;
Lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đêm dầu chữa cháy.

Năm Ðinh Mùi tháng chín,
Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang
Mộc Thạch tự Vân Nam kéo đến.

Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.
Mười tám Liễu Thăng thua ở Chi Lăng,
Hai mươi Liễu Thăng chết ở Mã Yến.
Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong,
Hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn dáo giặc phải lùi.
Lại thêm quên bốn mặt vi thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ tốt ra oai tì hổ
Thần thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Ðánh một trận sạch thông kình ngạc,
Ðánh hai trận tan nát chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Gớm ghê thay ! Sắc phong vân cũng đổi,
Ảm đảm thay ! Sáng nhựt nguyệt phải mờ.
Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật;
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cầu Trạm, chạy để thoát thân.
Suối máu Lãnh Câu nước sông rền rỉ,
Thành xương Ðan Xá, cỏ nội đầm đìa.
Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy;
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội;
Thế lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.

Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục,
Ta toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang sơn từ đây mở mặt
Xã tắc từ nay vững nền.
Nhật nguyệt hối mà lại minh,
Càn khôn bỉ mà lại thái.
Nếu vạn thế xây nền chăn chắn,
Hẹn nghìn thu rửa sạch làu làu.
Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy.

Than ôi !

Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định,
Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.
Bá cáo xa gần, ngõ cùng nghe biết.